9.- Câu Xá Tông Hay Là Hữu Tông I.- Duyên Khởi Lập Tông Tôn này thuộc về Tiểu-thừa, phát xuất từ bộ luận Câu xá của Ngài Thế-Thân. bộ luận Câu xá lại dựa theo ý-nghĩa của bộ kinh Ðại Tỳ-Bà-Sang (Mahavibhasacastra) mà thành lập. Bộ luận Câu xá được Ngài Trần-Chân-Ðế dịch và truyền sang Tàu rất sớm, nhưng về sau bị thất truyền. Trong giai đoạn đầu nầy, Câu-xá tôn chưa thành một tôn phái riêng biệt ở Trung Hoa. Chỉ đến khi Ngài Huyền-Trang đi thỉnh kinh ở Ấn Ðộ trở về, đem dịch lại bộ luận. Câu xá và đệ tử của Ngài là Ðại sư Phổ Quang dựa theo bộ luận nói trên mà ra bộ "Câu xá thuật ký", và Ngài Pháp bảo làm bộ "câu xá luận sớ" thì Câu xá tôn mới thành một tôn và được thạnh hành ở Trung Hoa. Nhưng hết đời Ðường (từ đầu thế kỷ thứ VII đến cuối thế kỷ thứ IX) thì tôn này lại dần dần suy tàn và nhường địa vị quan trọng cho phái Ðại -thừa khác, thích hợp với triết học và tâm lý của nhưng Trung Hoa hơn. II.- Tôn Chỉ Và Giáo Lý Căn Bản 1.- Tôn chỉ: Tôn này chủ trương "ngã không pháp hữu", nghĩa là không có thật ngã nhưng có thật pháp. Ðối với các tôn giáo khác thì chủ trương có một cái thật ngã, chủ tế thường nhất, một cái linh hồn trường tồn bất biến, mặc dù mọi sự vật đổi thay, sống hay chết. Theo Câu xá tôn thì một cái ngã như thế không thể có được, vì mọi sự vật trong vũ trụ, kể cả con người đều giả hợp mà thành, chứ không có một vật gì đồng nhất và bất biến. Ðây cũng là chủ trương chung của các giáo phái khác trong Phật giáo. Ðiểm sai khác giữa Câu xá tôn với các tôn phái khác là: Câu xá tôn thì chủ trương Pháp hữu, trong khi các giáo phái khác thì bảo rằng pháp không. Pháp hữu, nghĩa là bản thể thật tại của các pháp, hay nói một cách dễ hiểu hơn, nguyên liệu sanh ra các sự vật trong vũ trụ, là thường có, là có thật. Thí dụ: con người không có thật ngã, nhưng những nguyên liệu làm ra con người, như ngũ uẩn, tứ đại là thật có. 2.- Vũ trụ quang: Câu xá tôn phân biệt vũ trụ vạn hữu ra làm hữu vi pháp và vô vi pháp. Hữu vi pháp chỉ về hiện tượng trong hiện tượng giới, có sanh diệt, chuyển biến. Vô vi pháp chỉ về cảnh giới thường trụ, không sanh diệt, chuyển biến, cũng tức là chỉ về lý thể. Hữu vi pháp gồm có 72 món, và vô vi pháp gồm có 3 món, cộng tất cả là 75 món, hay 75 pháp. ÐỒ BIỂU VỀ 75 PHÁP 11 sắc pháp -Năm căn: Nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân. Năm cảnh: sắc, thanh, hương, vị, xúc và một vô-biểu sắc 75 PHÁP 72 pháp 1 tâm pháp Nhãn-thức, nhĩ-thức, hay tĩ-thức, thiệt-thức, hữu vi tâm-vương thân-thức, ý-thức. 46 tâm-sở 10 Ðại-địa pháp. pháp 10 Ðại-thiện-địa pháp. 6 Ðại-phiền-não-địa pháp 2 Ðại-bất-thiện -địa pháp 10 Tiểu-phiền-não-địa pháp 8 Bất-tịnh-địa pháp 14.bất tương ưng hành pháp 3 pháp vô-vi Trạch-diệt vô vi phi-trạch-diệt vô-vi Hư-không vô-vi Trong phạm vi nhỏ hẹp của tập sách, chúng tôi không thể đi sâu đễ giải thích từng pháp một được. Tuy thế đễ có một ý-niệm về các loại pháp ấy, chúng tôi xin sơ lược đại khái sau đây: Sắc pháp: phàm cái có thể hư nát và có tánh cách chướng ngại đều thuộc về sắc pháp. Trong 11 nhóm thuộc về sắc pháp, gồm có năm căn và năm cảnh, thì độc giả cũng biết rồi, không cần phải giải nữa; còn món thứ 11 là vô biểu sắc cần phải giải thích. Vô biểu sắc là cái sắc pháp không biểu hiện ra ngoài (pháp trần), đó làđối tượng của ý căn. Tâm pháp: Cũng gọi là Tâm Vương, vì nó có năng lực chủ động như ông vua có quyền chủ trương trong một nước. Tâm vương có ba tên: Tâm, ý và thức. Theo câu xá luận thì: "nhóm góp các tập quán mà khởi ra gọi là tâm; nghĩ ngợi gọi là ý; phân biệt gọi là thức". Tâm sở pháp:là cái pháp sở hữu phụ thuộc của tâm vương, như các ông quan phụ thuộc vào quyền sai sử của ông vua, hay các nhân viên phụ thuộcdưới sư điều khiển của ong chủ. Bất tương ưng hành pháp:Có thể gọi tắt làcái pháp bất tương ưng, nghĩa là các pháp không thuộc về sắc, mà cũng không hẵn thuộc về tâm, nhưng là kết quả của sự tiếp xúc giữa tâm và sắc.thí dụ như sự "sự được " Là một pháp bất tương ưng. Khi ta được một cái gì, "sự được " áy không thuộc vêăsc pháp , cũng không thuộc về tâm pháp . "Cái mà ta được " là sắc pháp , "cái nỗi nỗi vui mừng " khi được là tâm pháp , còn "sự được" không thể liệt vào sắc pháp hay tâm pháp được , vì thế cho nên gọi là bất tương ưng hành pháp . Vô-vi-pháp: nghĩa là những pháp không sanh diệt, chuyển biến, vượt ra ngoài ự dối đãi.Vô vigôm có ba pháp là:trạch diệt vô vi, phi trạch diệt vô vivà hư không vô vi. Bảy mươi lăm pháp này bao gồmtất cả sự vật trong vữ trụ. Sự vật trong vũ tru ĩchia ra làm hai loại lớn là:hữu tình thế gian và khí thế gian. -Hữu tình thế giántưc là toàn thể chúng sanh , có sự sống. -Khí thế giántưc là hoàn cảnh mà chúng sanh nương vào để sống như đất cát, núi, sông, nhà, cửa v.v .. Xét về phương diện thời gian, thì vũ trụ là vô thỉ vô chung, nghĩa là không có lúc bắt đầu và củng là không có lúc chung cục, mà chỉ có sự thay đổi, biến chuyển thôi. Trong vũ trụ có hằng hà sang thế giới, thế giới này thành, thì thế giới kia hoại, đắp đỗi cho nhau. Tuy thế, riêng mỗi thé giới, từ khi danh thành cho đến khi tiêu diệt, phải qua bốn giai đoạn ( thành, trụ, hoại, không) gồm một đại kiếp, tức là một ngàn hai trăm tám chục triệu năm (1.280.000). Xét về phương diện không gian,thì vũ trụ rộng lớn không thể tưởng tượng được .Trước tiên đon vị nhỏ nhấtcủa vũ trụlà thế giới(như thế giới nhỏ mà ta đang ở đây). Họp một ngàn thế giới mới thànhd một tiểu thiên thế giới; họp một ngàn tiểu thiên thế giới mới thành một trung thiên thế giới;họp một ngàn trung thiên thế giới mới thành một đại thiên thế giới. Như thế một đại thiên thế giới gồm(1.000*1.000*1.000) một ngàn triệu thế giốwi nhỏ (như thế giới chúng ta đang ở dây) . nhưng trong vũ trụ không phải có mđại thiên thế giới mà có vô lượng vô số đại thiên thé giới; cho nêntong kinh thường nòila:thập phương vi trần thế giới ( mười phương thế giới nhiều như cát bụi ) hay thập phương hằng hà sang thế giới ( mười phương thế giới nhiều như cát sông hằng ). Xét về phương diện phẩm chất thì vũ trụ chia làm ba tầng bấc cao tháp khác nhau, củng gọi là tam giới, hay ba cõi là: dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Dục giới là cõi của loài hữu tình chư Ấn Ðộ xa lìa được dâm dục và thực dục. Trong dục giới có sáu loại chúng sanh là thiên, nhơn, atula, súc sinh, ngạ quỷ,địa ngục. Sắc giới là cõi của loài hữu tình có hình sắc tốt đẹp, đã rời bỏ được dâm dục và thực dục. Cõi này có bốn bậc là:Ly sanh hỹ lạc địa, Ðịnh sanh hỷ dục địa, Ly hỷ diệu lạc địa và Xã niệm thanh tịnh địa. Vô sac giới là cõi không có hình sắc . các loài hữu tình sanh trong cõi này chỉ có tâm thức màthôi. Cõi này củng chia làm bốn từng bậc cao thấp, thông thường gọi là tứ không thiên: không vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ. 3.- Nhân sanh quan: chúng sanh nói chung, và con người nói riêng, do đâu mà có? Và đời sống chúng sanh có giá trị như thế nào? a)Theo câu xá tôn, thì chúng sanh sở dĩ bị xoay chuyển trong vòng sanh tử luân hồi, là do "nghiệp cảm duyên khởi", nghĩa là do mê hoặc mà tạo nghiệp, do tạo nghiệp mà cảm thọ các quả báo. Thế nào gọi là hoặc? Họăc nghỉa là mê mờ, không sáng suốt, không biết đâu là phải, đâu là trái tức là vô minh, mê vọng. Hoặc có hai loại: bổn hoặc và tùy hoặc, Bổn hoặc là sự mê lầm cội gốc, củng gọi là căn bản phiền não, như tham, sân,si,mạn, nghi, ác kiến. Tùy hoặc là những mê lầm dựa theo bổn hoặc mà phát sinh, cũng gọi là tùy phiền não. Trong sáu bổn-hoặc nói trên, thì năm hoặc đầu: tham, sanh, si, mạn, nghi, vì tánh chất chậm-lụt, ăn sâu gốc rễ trong thâm tâm chúng ta, rất khó dứt trừ, nên gọi là ngũ-độn-sử (sử là sai sử, xúi sử; những hoặc này sai khiến một cách tiềm tàng, sâu kín loài hữu tình làm cho chúng sanh cứ luẩn quẩn trong chổ mê lầm nên gọi là độn-sử). Còn hoặc thứ sáu là ác kiến, vì tánh chất nó lanh lẹ, không ăn sâu gốc rễ trong thâm tâm và dễ dứt trừ, nên gọi là lợi sử. Aùc-kiến hay lợi sử gồm có năm thứ là: Thâm kiến, Biên kiến, Tà kiến, kiến thủ, và giới cấm thủ. Thân kiến: là chấp một cách sai lầm rằng cái thân do ngũ uẩn giả hiệp này là có thật ngã. Biên kiến: là chấp sai lầm rằng cái thân này chết rồi thì tiêu diệt hẳn, không còn gì cả (đoạn kiến) hay trái lại, chấp cái thân này chết rồi, linh hồn vẫn còn mãi mãi (thường kiến). Những sự chấp ấy làm mất hẳn lý trung đạo, nên gọi là biên-kiến. Tà-kiến: là chấp những đạo lý mơ hồ tà bậy và bài bác những lý nhơn quả chơn chánh. Kiến-thủ: là chấp chặt kiến giải sai lầm của mình, mà không chịu theo đời các bậc hiển thánh. Giới cấm-thủ: là giữ giới sai-lầm như những giới khổ hạnh của ngoại đạo v.v... Do những bổn-hoặc và ác kiến nói trên sai sử, chúng sanh tạo ra các nghiệp, làm nhân quả cho nhau và khiên sau khi cho chúng sanh phải xoay vần mãi trong sanh tử luân hồi. Nghiệp có ba thứ: ý-nghiệp, tức là tự suy nghĩ, hành đọng của ý niệm; ngữ-nghiệp, tức là sự nói năng; thân nghiệp, tức là những hành động về thể xác. Nghiệp có ba tánh là: lành, dữ và vô ký (nghĩa là trung bình, không lành, không dữ). Nghiệp lành thì có quả báo lành, nghiệp dữ thì có quả báo dữ. Còn nghiệp vô-ký thì có quả báo không lành không dữ. Nghiệp lành, cũng như nghiệp dữ, đều có mười thứ: Mười nghiệp dữ là: giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối gạt, nói thiêu dệt, nói chia rẽ, nói độc ác, tham lam, giận giữ, si mê. Mười nghiệp lành là: không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối gạt, không nói thiêu dệt, không nói chia rẽ, không nói độc ác, không tham lam, không giận giữ, không si mê. Quả-báo của mười nghiệp lành và mười nghiệp dữ có mau và chậm, nghĩa là có khi xảy ra trong một đời, có khi hai ba đời sau mới thọ quả-báo. Khi thời kỳ cảm quả chịu báo đã xác định, thì gọi là định nghiệp. Trái lại, htì gọi là bất định nghiệp. Bất định nghiệp có hai thứ: một là quả báo đã định mà thời kỳ chịu quả báo chưa định; hai là cả quả báo và thời kỳ chịu quả báo đều chưa định. b). Trên đây là nói lý do vì sao có sự hiện diện của chúng sanh trong thế giới này. Dưới đây, chúng tôi sẽ nói đến giá trị của sự hiện diện ấy theo quan niệm của Câu xá tôn, tức cũng là quan niệm của Tiểu-thừa Phật giáo. Quan niệm ấy, không xa lạ gì đối với chúng ta. Ðó là cõi đời là một bể khổ, trong ấy, chúng sanh đang lặn hụp, trôi lăn, sống chết. Con người khổ vì sanh, lão, bệnh, tử. Con người khổ vì yêu nhau mà phải xa lìa, ghét nhau mà phải chung sống, muốn một đàng mà thực tế đưa đi một nẻo. Con người khổ vì tai trời, nạn nước: bão, lụt, chiến-tranh, trộm cướp v.v...Con người khổ vì sống trong một hoàn cảnh mê mờ, tối tăm, không biết đâu là thật, đâu là giả, đâu là hạnh phúc chân thật, đâu là ảo ảnh giả dối. Con người khổ vì mong được trường tồn àm cõi đời lại vô thường, luôn luôn biến đổi, có đó không đó, có đó mất đó, như một trò mộng huyễn. Con người khổ vì tưởng rằng có một cái thật-ngã làm nồng cốt cho sự sống, thuần nhất, tự tại, ngờ đâu cái Ngã ấy là giả dối, không có thật vì bị hoàn cảnh chi phối làm cho điêu đứng, đảo điên. Tóm lại, cõi đời là một bể khổ làm bằng nước mắt của tất cả chúng sanh. III.- Phương Pháp Tu Hành 1.- Tứ-diệu-đế. Muốn giải thoát ra ngoài bể khổ mênh mông của cõi đời, Câu xá tôn chủ trương phải tu theo pháp "Tứ-diệu-đế". Tứ diệu đế tức là bốn lẽ chân thật đưa người tu hành từ cảnh mê đến cảnh ngộ, từ cõi Ta bà đau khổ, đến cảnh giới Niết bàn tịch tịnh. - Diệu đế thứ nhất chỉ rõ cho người tu hành thấy cõi đời là đau khổ. - Diệu đế thứ hai chỉ rõ cho người tu hành thấy được nguyên nhân của sự đau khổ trong cõi Ta-bà. - Diệu đế thứ ba chỉ rõ cảnh giới an lạc sau khi ra khỏi cõi đời đau khổ. - Diệu đế thứ tư chỉ rõ con đường tu hành để đi đến cảnh giới an lạc Niết bàn. Bốn Diệu đé ấy tức là: khổ, tập, diệt, đạo vậy. 2.- Thập nhị nhân-duyên. Với những căn cơ lanh lợi, thì có thể tu theo pháp Thập-nhị-nhân-duyên. Thập-nhị-nhân-duyên là 12 nhân duyên kế tiếp theo nhau, làm nhân, làm quả, khiến cho chúng sanh phải mãi mãi xoay vần trong bể khổ sanh tử luân hồi. Mười hai nhân duyên ấy là: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục thập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Mười hai nhân duyên này như mười hai vòng xích nối liền với nhau làm thành một chuổi xích, không biết đâu là đầu, đâu là cuối. Nếu cắt đứt được một vòng xích thì chuổi xích ấy tất phải phải đứt đọan. Ðối với kẻ tu hành, muốn chấm dứt sanh tử luân hồi, thì cái mắc xích cần phải bị cắt đứt là ái. Aùi ở đây tức là luyến ái. Vì luyến ái nên mới có thủ cho mình, rồi thủ sanh ra hữu. Và từ đó, cái vòng sanh tử lại tái diễn. Vậy không có ái, thì không có hữu, không có hữu thì không có sanh, không có sanh thì không có lão tử, nghĩa là không có khổ đau. IVQuả Vị Tu Chứng 1.- Người tu theo pháp Tứ-diệu đế, nếu mau lắm thì cũng phải trải qua qua ba đời, còn nếu chậm, thì phải tải qua 60 kiếp, mới chứng được A-la-hán, la fcõi cao nhất của hàng Thanh Văn. Trước khi chứng được quả vị A-la-hán, hành-giả tuần tự chứng các quả dưới đây: Tu-đà-hoàn, Tàu dịch là Nhập lưu, hay Dự lưu, nghĩa là bắt đầu nhập vào dòng Thánh. Tư-đà-hàm, Tàu dịch là Nhất lai, nghĩa là còn phải đầu thai vào cõi Dục-giới một lần cuối cùng nữa, để tu hành cho rốt ráo, trước khi vĩnh viễn xa rời cõi này. A-na-hàm, Tàu dịch là Bât-lai, nghã là không còn phải đầu thai vào cõi Dục-giới nữa. Hết bực này là đến quả vị A-la-hán. A-la-hán, Tàu dịch là Ứng-cúng hay Vô-sanh, nghĩa là dứt bỏ được cái điều mê lầm trong cõi Sắc giới và Vô- sắc giới, không còn phiền não, không còn chịu sanh tử luân hồi, vượt ra khỏi ba cõi, hưởng sự cúng dường của thiên và nhân. Bậc này gọi là bậc Vô-học, nghĩa là không phải tu học pháp gì nữa. 2.- Ðối với lối tu Duyên-giác, nghĩa là tu theo lối quán 12 nhân duyên, thì quả vị không có chia ra nhiều tầng bậc, chẳng qua khi đang tu hành thì gọi là Duyên-gíac hướng, nghĩa là đi lần tới mục đích của sự tu hành là quả Duyên-giác. Còn khi tu được đầy đủ, dứt mối mê lầm, chứng được chân lý, thường hưởng được cái vui giải thoát trong cảnh Niết-bàn, thì gọi là Duyên-giác quả. Vị chứng được quả này thì gọi là Bích-chư-Phật, tức là vị Phật tự giải thoát cho mình, nhưng chưa có thể giác tha. Từ khi bắt đầu tu hành cho đến khi chứng quả Duyên-giác, thời gian dài ngắn khác nhau tùy theo căn cơ của kẻ tu hành: vói căn cơ lanh lợi thì ít ra cũng phải trải qua bốn đời tu luyện; với căn cơ chậm lụt thì phải trải qua 100 kiếp tu hành. V.- Kết Luận Câu xá tôn, mặc dù chỉ là một tôn phái trong nhiều tôn phái của Tiểu-thừa, nhưng có thể đại diện một cách gần đấy đủ cho phái Tiểu-thừa Phật giáo. Bởi thế , Câu xá tôn, chúng ta có thể hiẻu một cách khá tường tận giáo lý căn bản và phương pháp tu hành của hàng Tiểu-thừa trong quá khứ xa xưa. Nhưng từ khi tôn này được thành lập ở Trung Hoa đến bây giờ, thời gian đã trôi qua hơn một ngàn năm. Trong thời gian ấy, chắc cũng có nhiều sự biến đổi trong chi tiết. Chúng tôi rất tiếc không có nhiều tài liệu để nghiên cứu một cách đầy đủ những biến chuyển của tôn này qua thời gian và sự tồn tại của nó trong hiện tại như thế nào. Do đó, chúng tôi thành thật đề nghị với quý độc giả hãy xem bài này như một bài nghiên cứu về một trong mười tôn phái ở Trung Hoa, chứ chưa phải một con đường hoàn bị, hướng dẩn trực tiếp quý vị vào sự tu luyện. Chúng tôi muốn nói, nếu quý vị thấy căn cơ mình thích hợp với giáo lý Tiểu-thừa, mà muốn bắt tay vào sự tu luyện, thì cũng cần tìm đọc thêm nhiều nữa và nghiên cứu cho đến nơi đến chốn, để khỏi lạc hướng sai đường. 10.- Thành Thật Tông I.- Duyên Khởi Lập Tông Tôn này thuộc về Tiểu Thừa, y cứ vào ý nghĩa của bộ thành thật luận, do đó gọi là Thành thật tôn. Bộ Thành thật luận do ngài Ha-lê-bạt-ma ( Harivarman, Tàu dịch là Cưu-ma-la-đà (Kumaraladha) thuộc phái Tiểu Thừa Tát-bà-đa làm ra, vào khoảng 900 năm, sau khi đức Phật Thích Ca nhập niết bàn. Như chúng ta đã biết qua trong phần lịch sử truyền giáo ở Aán độ, sau khi đức Phật nhập niết bàn, phái Tiểu Thừa chia ra thàngh nhiều nhóm, giải thích kinh điển của Phật không giống nhau. Nhận thấy nguy cơ có thể làm cho Phật giáo suy đoivif sư không đồng quan điểm`về giáo lý của các tôn phái ấy, ngài Ha-lê-bạt-ma đã đem hết tâm lực và trí tuệuyên bác của mình, rút ra lý tinh tủytong các bộ kinh luậncủa Tiểu Thừa, làm ra bộ thành thật luận. Sở dĩ ngài dùng hai chữ "Thành thật"để đặt tên cho bộ luậncủa mình là hàn ý muốn nói rằng: những lý nghĩa trong bộ luận của minhlaf chân thật, đúng đắn hoàn toàn với giáo lý căn bản trong ba tạng kinh điển của Phật . mà thật như thế, bộ Thành thật luận là bộ luận có thể tiêu biểu một cách trung thựcgiáo lý của Tiểu Thừa. Và củng vì giá trị chân chính ầy màbộ Thành thật luận được truyền sang Trung Hoa và được Ngài Cưu-ma-laThập trong đời giao tần dịch ra văn Tàu, gồm có tất cả 16 cuốn, chia ra làm 202 phẩm. Nhưng mặc dù được người đời hâm mộ, bộ luận này phải đợi đến đời Nam Bắc triều mới thành lập một tôn riêng tức là" Thành thật tôn". II.-Tôn Chỉ Và Giáo Lý Căn Bản Tôn này chủ trương "nhân không , Pháp không ". Như chúng ta đã biết, theo Câu-xá-tôn thì nhơn không nhưng pháp lại có. Thành thật tôn, đi xa hơn, cho rằng nhơn không thật, mà pháp củng không thật. Ðể giải thích chủ trương "hai không" này, Thành thật lập ra hai môn là: Thế giwói môn và Ðệ nhất nghĩa môn. 1.- Thế giới môn: Môn nghĩa đen là cửa; Thế giới môn tức là cửa của Thế giới; nói một cách thông thường như ngày nay thường nói, "thế giới môn" tức là đứng về "phương diện thế tục, phương diện tương đối" mà quan sát suy luận. Xát về phương diện tương đối, thì nhơn cũng có mà pháp cũng có. Thật vây, theo sự nhận xét thông thường, thì ta có một cái thân; ta đi, đứng, nằm, ngồi; ta có một cái tâm để suy xét, phân biệt, nhớ chuyện quá khứ, tính chuyện tương lai? Thế mà bảo mà không có ngã thì thật là vô lý. Lại trong kinh cũng thường nói: ta thường tự ngăn ngừa và tụ giữ lấy ta, làm lành tự mình được hưởng điều lành, làm dữ, tự mình chịu hưởng quả dữ. Vậy nếu bảo rằng không có người, không có ta, thì thật là trái với nhận xét và lý luận thông thường. Xét về các pháp cũng vậy, bảo rằng không thì cũng là vô lý. Nếu không có sắc pháp thì làm sao có thân ta, có cảnh giới chung quanh ta? Ừ, thì thân ta, do ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, giả hợp mà thành. Những thứ này cũng là pháp cả. Thí dụ nếu ta chia chẻ cái sắc pháp ra thành nhỏ mãi, thì cuối cùng, dù nhỏ đến không thể chia chẻ được nữa, cũng vẫn là sắc, chứ sắc không thể chia ra mà thành "không" được . Ngược lại, nếu đã là không , thì không thể đem cái "không" ấy nhân lên mãi mà thành "có" được. Cũng như trong toán học, dù có nhân bao nhiêu lần với con số không ( dero), thì không cũng vẫn là không . 2.- Ðệ nhất nghĩa môn: Ðệ nhất nghĩa môn, hay chơn đế, là nói về phương diện tuyệt đối. Ðứng về phương diện này mà xét, thì Ngã và Pháp điều là giả có, chứ không thật có. Khi năm uẩn hòa hợp thì tạm gọi là ta; khi năm uẩn tan ra thì cái ấyy không còn nữa. Vã lại cái ta ấy, trong lúc còn sanh tiền, thì mõi phút, mỗi giây cũng đều có thay đổi, biến chuyển chứ không thuần nhất là bất biến. Các pháp cũng vậy, tương đối mà nói thì có, nhưng tuyệt đối mà xét thì cũng không thật có. Các pháp cũng do nhân duyên hòa hiệp mà tạm gọi là có, chứ không thể có một cách tuyệt đối, nghĩa là không thuần nhất và bất biến. Vì thế cho nên Phật dạy: "các pháp đều là như huyễn như hóa". Kinh Bát nhã cũng nói: "sắc chẵng khác gì không , không chẵng khác gì săc, sắc tức không , không tức sắc"...Tóm lại, đứng về đệ nhất nghĩa môn mà xét, các pháp rốt ráo là chơn-không . Chơn-không là thế nào? Chơn-không có nghĩa là: chơn pháp của các pháp trong vũ trụ vốn là chơn thật, nhưng không phải là có các hình tướng như các hình tướng giả dối mà người đời thường thấy ở chung quanh. Cái "có" và cái "không " ở trong đời, đối với chân đế, hay đệ nhất nghĩa đế, đều giả dối, không thật. Nên biết cái "không " hiểu theo nghĩa chơn đế, khác với "không" hiểu theo nghĩa tục đế. Cái "không" của Chơn đế thì gọi là Chơn không; còn cái không của Tục đế là cái "không" đối đãi với cái "có" mà thành, đó là không giới. Chơn không thường vắng lặng tịch diệt ra ngoài cái đối đãi của "có"và "không" phàm tục. Còn không giới chẳng qua là cái sắc đối với nhãn căn đó thôi. Chơn không không phải là sắc; không giới mới là sắc. Chơn không, không thấy được. Choan không không đối tượng; không giới thuộc về đối tượng. Chơn không là vô lậu. Không giới là hữu lậu. Chơn không là vô vi, Không giới là hữu vi. 3.- Tương quan giữa Thế giới môn(Tục đế) và Ðệ nhất nghĩa môn(Chơn đế): Theo để nhất nghĩa môn thì chơn lý của vũ trụ vốn Chơn không tịch diệt,vắng lặng; theo thế giới môn thì có ta và người, có sắc và không, nghĩa là có ngã và pháp. Vậy thì giữa Thế giới môn và Ðệ nhất môn có tương quan gì với nhau không? Làm sao mà Chơn không tịch tịnh lại pháp sanh ra ngã và pháp, nghĩa là từ chổ Chơn không lại phát sanh ra chúng sanh và sơn hà đại địa? Thành thật tôn cắt nghĩa: đó là vô minh. Các pháp trong vũ trụ, thể tánh vốn vắng lặng, tịch diệt, nhưng vì do tâm vọng tưởng phân biệt mà có rối loạn, lăng xăng. Nói một cách rõ ràng hơn, bản tánh của vũ trụ vốn là không có ngã, không có pháp nhưng vì "hai món chướng"mà thấy có ngã và pháp. Hai món chướng ầy là: a) Phiền não chướng, tức là các nghiệp chướng về Kiếùn hoặc Tư hoặc. Chướng này vì chấp cái ta mà thiệt có, nên mới sanh các phiền não, rối loạn thâm tâm,chướng ngại đạo Niết bàn tịch tịnh. Chướng này, trong Câu xá luận, thì gọi là "tánh nhiễm ô vô tri". b) Sở tri chướng: cũng gọi là trí chướng. Căn bản của chướng này, là chấp các pháp thật có, làm che lấp cái tánh vô điên đảo đối với các cảnh mình hay biết, làm chướng ngại đạo Bồ đề. Chướng này trong câu xá luận gọi là "bất nhiễm ô vô tri" ( không nhiễm ô nhưng vẫn thuộc về si mê không biết, vì làm cho mình không chứng rõ được chơn lý).
4.- 84 pháp: Như chúng ta đã thấy trong Câu xá tôn, những hiện tượng của nhơn sanh và vũ trụ, được phân thành 75 pháp. Theo Thành thật tôn, thì nhân sanh, vũ trụ lại được chia thành 84 pháp. Còn Pháp tướng tôn lại chia thành 100 pháp. Như thế, chúng ta nên hiểu rằng sự phân chia ra ít hay nhiều pháp chỉ là một vấn đề tương đối, chứ không có nghĩa nhất định. Sự phân loại các pháp này, chỉ có một mục đích là để nghiên cứu cho rõ ràng nhân sanh, vũ trụ mà thôi. 84 pháp mà Thành tật tôn đã phân loại là: