4.- Phái Trúc Lâm: Ðệ nhất tổ của phái Trúc Lâm tức là vua Trần Nhân Tôn (1278-1308). Ngài mộ đạo khi còn nhỏ. Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái tử, Ngài cố nhường lại cho em nhưng không được, nên trèo thành trốn đi, định vào tu ở núi Yên Tử. Nhưng Ngài mới đi nữa đường thì bại lộ tung tích, bị vua cha sai quan đi bắt về. Ngài phải miễn cưỡng trở về. Sau Ngài lên làm vua, trở thành một vị anh quân và giử vững nền độc lập nước nhà trước sự xâm lăng ồ ạt, nhưng vô hiệu quả của quân Nguyên. Sau khi đuổi được giặc nguyên, Ngài truyền ngôi lại cho con là Anh Tôn, và vào tu ở núi Yên Tử, thực hiện chí nguyện thuở thiếu thời của mình. Ngài lấy hiệu là Hương Vân Ðại Ðầu Ðà lập trường giảng pháp, môn đồ tìm đến tu học kể có hàng vạn người. Ngài thường đi khắp nơi để giảng đạo và phát thuốc. Ngài tịch một cách ất bình tĩnh vào lúc 51 tuổi. Trong các phái Thiền tôn ở Việt-Nam, chỉ có phái Trúc Lâm là phát tích tại đất nước Việt. Trong phái này, cũng có nhiều vị thiền sư có tiếng tăm như Ngài Pháp Loa tôn sư, Ngài Huyền Quang tôn sư ... 5.- Phái Lâm Tế: Phái Lâm Tế do Ngài Nguyên Thiều khai sáng tại Trung Việt. Ngài họ Tạ, quê ở Quảng Châu (Trung Hoa). Ngài đi theo tàu buôn qua An Nam, trú ở phủ Qui Ninh (Bình Ðịnh) lập chùa Thập Tháp Di Ðà, Mở trường dạy học. Sau Ngài ra thuận hóa lập chùa Hà Trung, rồi lên Xuân Kinh (Huế) lập chùa Quốc Ân và dựng tháp Phổ Ðồng. Sau Ngài phụng mạng đức Anh Tôn ( Nguyễn Phúc Tráng 1687-1691) trở về Trung Quốc, tìm mời các vị danh tăng và cung thỉnh pháp tượng, pháp khí. Ngài về Quảng Ðông mời được Hòa Thượng Thạch Liêm và các danh tăng khác, cùng thỉnh được nhiều kinh điển, tượng, pháp khí trở về Nam. Chúc Nguyễn liền sắc mở đàn truyền giới rất long trọng tại chùa Thiên Mụ. Sau đó, chúa Nguyễn sắc ban Ngài chức trụ trì chùa Hà Trung. Năm Bảo Thái thứ 10 nhà Lê, Ngài tịch tại chùa Hà Trung, sau khi dặn dò đệ tử và truyền bài kệ sau đây: Tịch tịch, kính vô ảnh Minh minh, châu bát dụng Dường đường,vật phi vật Liểu liểu, không vật không Ðại ý: Thể pháp thân thanh tịnh sáng suốt như mãnh gương sạch không bụi, như ngọc minh châu, trong sáng bóng ngời. Tuy hiện tiền sự sự, vật vật sai khác, nhưng đều là thể pháp thân biểu hiện. Thể pháp thân thường vắng lặng mà không phải là không, tức là lý chân không diệu hữu. Xét trong Lịch truyền tổ đồ thì Ngài đứng về đời 69, xét về chánh thống phái Lâm Tế thì Ngài đứng về đời 33, còn xét riêng về phái Lâm Tế ở Trung Việt, thì Ngài là sơ tổ. 6.- Phái Liễu Quán: Phái Liểu-quán xuất phát từ Liểu-Quán-Hòa-Thượng. Ngài Liểu-quán quê ở Phú-yên (Song-cầu). Ngài ra Thuận Hóa thọ giới Sang-Di với Ngài Thạch-Liêm Hòa-Thượng. Năm 1702, Ngài đến Long-Sơn cầu học pháp tham-thiền với Ngài Tử-Dung Hòa-Thượng (Tổ khai sơn chùa Từ Ðàm Huế, người Trung Hoa). Tổ Tử-Dung dạy Ngài tham-cứu câu: Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ , (muôn pháp về một, một pháp về đâu?) . Ngài tham cứu mấy năm, đến khi xem bộ Truyền-Ðăng-Lục, thấy có câu: Chỉ vật truyền tâm, nhơn bất hội xứ . Ngài liền tỏ ngộ. Năm 1742, cuối mùa thu, Ngài thọ bịnh. Trước khi lâm chung, Ngài gọi môn đồ đến dạy rằng: nhơn duyên đã hết, ta sắp chết đây . Thấy môn đệ khóc, Ngài dạy rằng: các người khóc làm gì? các Ðức-Phật ra đời còn nhập niết-bàn. Ta nay đi đến rỏ ràng, về có chổ. Các người không nên khóc và đừng buồn thảm . Rồi Ngài viết bài kệ từ biệt sau đây : Nguyên văn: Thất thập dư niên thế-giới trung Không không, sắc sắc diệu dung thông Kim triêu nguyệt mãn, hoàn gia lý Hà tất bôn ba vấn tổ tông. Dịch nghĩa: Ngoài bảy mươi năm trong thế-giới Không không, sắc sắc thảy dung thông Ngày nay nguyện mãn về nơi củ Hà phải ân cần hỏi tổ tông. Viết xong, Ngài bảo môn đồ: Sau khi ta đi, các ngươi phải nghĩ cơn vô-thường nhanh chóng, cần phải siêng năng tu học. Các người hãy cố gắng tới chớ bỏ qua lời ta. Ngài tịch vào ngày 22 tháng 11 năm Nhâm-Tuất (1742) vào giờ Mùi, sau khi dùng nước trà xong và vui vẻ từ biệt môn đồ. Ðến đây chúng ta cũng nên nhận định cho rỏ ràng điễm này: Như tôi nói ở đoạn trước, Thiên-Tôn do người Việt sáng lập chỉ có một Phái duy nhất do vua Trần-Nhân-Tôn làm Sơ-tổ là phái Trúc-Lâm Yên-Tử. Nhưng đến nay, chúng ta lại thấy xuất phát một phái nữa là phái Liểu-quán, do Ngài Liểu-quán một danh tăng Việt-Nam chủ xướng, như vậy có mâu thuẩn với sự nhận xét ở trên không? Thật ra, so với các phái Thiền-Tôn khác ở Việt-Nam, thì phái Liểu-quán chỉ một phái nhỏ, chỉ nằm trong phạm vi mấy tỉnh miền Trung-Việt. Vả lại, Ngài Liểu-quán cũng là đệ-tử của Ngài Tử-Dung, một vị sư Trung Hoa thuộc phái Lâm-Tế. Do đó, pháp Liểu-quán, nếu chúng ta đi tìmm nguồn góc xa hơn một chút nữa, thì cũng chỉ là một chi nhánh của phái Lâm-tế mà thôi. Các Kinh Sách Nói Về Thiền Khi kinh sách nói về Thiền không thể kể xiết được. Tuy thế, đễ quý độc-giả khỏi bỡ-ngỡ trong khi nghiên cứu, học hỏi, chúng tôi xin dẫn một số sách thiết yếu sau đây: 1.-Kinh Lăng-già 2.-Kinh Lăng-Nghiêm 3.-Kinh Viên-Giác 4.-Kinh Pháp-Bảo-Ðàn 5.-Ðại-thừa Chỉ-quán 6.-Tiểu Chỉ-quán 8.-Ðồng môm Chỉ-quán 9.-Kinh Kim-cang 10.-Truyền-đăng-lục 11.-Thuyền-gia ngữ-lục 12.-Tọa-thiền chỉ nam 13.-Tông-cảnh-lục (của Ngài Tống Diên Thọ Thiền-sư) 14.-Luận Ðại-thừa khởi tín (của Bồ Tát Mã-Minh) 15.-Vô-môn-quán (của Tổng Tôn-Thiện Thiền-sư) 16.-Bích-Nha-Lục (của Phật quả Viên-ngộ) 17.-Thung-dung-lục (của Vạn tùng Lão-nhơn) 18.-Thiền-lâm Vĩnh-gia tập (của Huyền-giác) 19.-Thiền-tôn chỉ nam (của vua Trần-Thái-Tôn) .v.v... C.- Tổng Kết các Loại Thiền định Thiền-Ðịnh có nhiều loại, nhưng tóm lại áo thể chia làm hai loại lớn: Chánh-định và tà-định, hay Phàm-phu thiền và Thánh-nhơn thiền và Phật Giáo thiền. Thiền Ngoại Ðạo Những người theo lối thiền-định này do tâm niệm không chơn-chánh (phiền-nảo, tham, sân, si v.v....) làm động cơ thúc đẩy. Họ không nhắm ngay mục đích dẹp trừ vô-minh phiền-não, cầu được minh-tâm kiến-tánh, hay giác-ngộ, giải thoát, mà chỉ nhắm mục đích nhỏ hẹp, thiển cận, như cầu được thấy những điều huyền diệu, cầu được thần-thông biến-hóa để đi dạo chơi ở các thé-giới khác, cầu thành tiên để lạc-thú tiêu-dao ở cảnh tiên, cầu cho thân thể không bệnh hoạn, được trường sinh bất tử, cầu cho được phép lạ dể trị bệnh, để thien hạ sùng-bái, kính phục, hoặc để gần gũi nữ sắc, hay cầu tài lợi v.v.. Hảy lắng nghe lời Tổ Tôn-Mật dạy: Người tà kiến chấp trước sai lầm , ư acõi trên, chán cõi dưới mà tu thiền, đó là ngoại đạo thiền . Thiền Phàm Phu Những người tu theo loại thiền này không có tâm niệm cao thượng, chỉ vì chán ngán cõi Dục làm ô-trược mà cấu sinhvề cõi sắc và Vô-sắcđể hưởng thú vui thanh thoát. Hãy lắng nghe Tổ Tôn-Mật phê phán hạng người tu về loại thiền này: Người chán tin nhơn quả, nhưng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền là phàm-phu thiền . Thiền Phật Giáo Thiền-định của Phật Giáo có hai loại: Tiểu-thừa thiền và Ðại-thừa thiền. -Tiểu-thừa thiền: là những pháp thiền dành cho người có căn tánh Tiểu-thừa. Người tu phép Thiền-định này chỉ có công-dụng hạn cục, vì tu pháp nào thì chỉ trừ được phiền-não cũa pháp ấy. Và sự tu luyện ở đây cũng chỉ tuần tự mà tiến, chứ không thể đốn-ngộ nagy được. Hơn nữa, người tu Tiểu-thừa thiền, tuy đã phá ngã-chấp, nhưng còn bị pháp-chấp. Họ không ngộ được rằng: những phương-pháp tu hành đều là phương tiện để giúp cho họ dẹp trừ vô-minh phiền não, tiến lên chổ giác ngộ, chớ không nên cố chấp có nên tu, thật chứng. - Ðại-thừa thiền: Ðây là phương-pháp tu thiền của các vị Bồ Tát, căn tánh mau lẹ, vượt bưc. Với hạng này, các vị chỉ nghe một câu nói hay chỉ tu một pháp, cũng có thể liền tỏ ngộ; như Ngài Huệ-Năng, chỉ nghe câu Ưng vô sở trụ, nhi sanh ký tâm , hay Ngài Ca-Diếp, chỉ thấy Phật đưa cành hoa sen mà liền tỏ ngộ Sở dĩ các vị này mau tỏ ngộ như thế là vì họ đã trải qua nhiều kiếp tu hành rồi, sắp được giác ngộ, nay gặp thời cơ, nhân duyên thì liền phát-chiếu, như cành hoa đã được vun tưới đủ sức rồi, chỉ chờ thời tiết là trổ bông. Hãy nghe Tổ Tôn-Mật nói về các vị này: Người ngộ được lý ngã, pháp đều không mà tu thiền là Ðại-thừa thiền. Người đốn-ngộ tự tâm xưa nay vốn thanh-tịnh, không có phiền-não, đầy đủ trí-huệ vô-lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác. Y theo tân này mà tu thiền là Tối-thượng thừa thiền, cũng gọi là Chơn-như tam-muội . Vè phương-pháp tu chứng và truyền thọ của Ðại-thừa thiền có ba cách: - Cách thứ nhất: Ðây là các loại tam-muội má hành-giả căn cứ theo các kinh sách Ðại-thừa tu luyện, như Pháp-hoa tam-muội, Niệm-Phật tam-muội, Gíac-ý tam-muội, Thủ-tăng-liêm tam-muội v.v.... - Cách thứ hai: Lối thiền này không căn cứ theo kinh điển, văn tự, mà chỉ dùng một câu nói ngắn ngủi để chỉ giáo. Trong Phật Giáo gọi lối thiền này là: Bất luận văn tự, giáo ngoại biệt truyền (không dùng văn tự, truyền ngoài kinh giáo). Thiền-giả chỉ căn cứ theo một câu nói ấy mà nghiên cứu mãi cho đến khi tỏ ngộ. Công việc tham-cứu này, Thiền-giả có nhiều khi kéo dài hàng chục năm. - Cách thứ ba: Với cách này,chúng ta khó có thể say nghĩ luận bàn gì được. Trong cách này, khi có người đến cầu pháp, các Tổ sư không dùng lời nói mà chỉ dùng một cử chỉ gì đó, hay một tiếng la hét mà thôi. Như dòng Lâm-Tê, khi có người đến cầu đạo, Thiền-sư chỉ dùng gậy đánh và tiếng hét. Như dòng Quy-ngưỡng, các vị Tổ-sư chỉ vẽ hình thú, hình người, hình chữ Vạn mà khai ngộ cho đệ-tử . Như dòng Vân-môn, có vị Tổ chỉ nói một chữ, mà làm cho người cầu đạotỏ ngộ. Như có Ngài chỉ đãi nước trà (Ngài Triệu-châu) hay mời ăn cơm, mà người đến cầu đạo được tỏ ngộ. Có Ngài lại ngắm bóng mình cưới nước và cười, khi đi ngang qua cầu, liền ngộ đạo (hổ khê tam chiếu chí kim truyền), hay nghe chim oanh hót trên cành liễu, hay lấy gậy đập cục đất cho để tan mà liền tỏ ngộ. Thật là thiền-cơ nhiệm-mầu, người ngoài không thê rsay nghĩ, bàn luận được. Muốn cho người cầu đạo được kết-quả, các vị truyền pháp phải hội đủ ba diều kiện sau đây: -Biết văn-cơ người cầu đạo. -Biết thời-tiết đúng lúc truyền đạo. -Biết phương-pháp nào thích hợp, trong ba phương-pháp nói trên, nếu truyền bá không hợp cơ, hợp thời, hợp pháp thì người tu thiền không có kết-quả. Trước khi dừng bút, chúng tôi có một nhận xét sau đây ma fchác quý độc-giả cũng đồng ý là: Nước ta ngay fxưa là một nước chịu ảnh hưởng lớn của Thiền-tôn, và Thiền-tôn là môn phái rất thịnh hành trong nước. Thế mà ngày nay, vi fbao cuộc biến thiên của lịch sử, Thiền-tôn không còn được truyền thọ trong các chùa cũng như trong dân chúng một cách sung-mậu như xưa nữa.
Vậy chúng tôi hy-vọng rằng, từ đây về sau, nhờ sự giao-thông tiện lợi từ nước này sang nước khác, nhờ sự trao đổi văn hóa, và nhờ gia tâm tu học của các Phật-tử Việt-Nam, Thiền-tôn sẽ lấy lại sắc thái sung-mậu ở Việt-Nam như các thờiLý, Trần.