Sách (2)


Xem mục lục

Chi 1. – Xét chỗ điên-đảo nơi căn và trần

Nghĩa thứ hai là các ông quyết muốn phát-tâm Bồ-đề, nơi thừa Bồ-tát, sinh lòng đại-dũng-mãnh, quyết-định rời-bỏ các tướng hữu-vi, thì nên xét rõ cỗi-gốc phiền-não, những cái vô-minh phát-nghiệp và nhuận-sinh vô-thủy đó, là ai làm, ai chịu?

A-nan, ông tu đạo Bồ-đề, nếu không suy-xét cỗi-gốc phiền-não, thì không thể biết những căn-trần phiền-não, thì không thể biết những căn-trần hư-vọng, nó điên-đảo ở chỗ nào; chỗ điên-đảo còn không biết, thì làm sao uốn-dẹp được nó và chứng được quả-vị Như-lai.

A-nan, ông hãy xem người thế-gian cởi nút, hễ không thấy chỗ thắt nút, thì không biết cởi, chứ không hề nghe hư-không bị phá-tan; vì sao? Vì hư-không không có hình-tướng, không thắt, không cởi vậy. Thì như ông hiện nay, sáu thứ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý làm mai-mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà; do đó, từ vô-thủy, thế-giới chúng-sinh sinh ra ràng-buộc, không thể vượt khỏi thế-gian sự vật.

Chi 2. – Chỉ rõ sự ràng-buộc và siêu-thoát của thế-giới chúng-sinh.

A-nan, thế nào gọi là thế-giới chúng-sinh? Thế là dời-đổi, giới là phương-hướng. Nay ông nên biết những phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông-Nam, Tây-Nam, Đông-Bắc, Tây-Bắc, phương trên, phương dưới là giới. Còn quá-khứ, vị-lai, hiện-tại là thế. Phương-hướng có mười, số lưu-chuyển của thời-gian có ba, hết thảy chúng-sinh dệt cái vọng mà thành như vậy; nơi sự dời-đổi trong thân, thế và giới gắn-bó với nhau. Nhưng cái tính của giới đó, tuy là mười phương, song có chỗ nhất-định có thể chỉ rõ, thì thế-gian chỉ nhận phương Đông, phương Tây, phương Nam, phương Bắc; phía trên, phía dưới, thì không có vị-trí rõ-ràng; ở giữa cũng không có chỗ nhất-định. Số bốn đã rõ rồi, nhân với số thế, thì ba lần bốn, bốn lần ba, xoay-vần là số mười hai, nhân luôn ba lớp, một chục thành trăm, thành nghìn, thì tổng-quát trước sau, ở trong sáu căn, mỗi mỗi có thể có đến một nghìn hai trăm công-năng.

A-nan, trong sáu căn đó, ông lại xét-định chỗ hơn, chỗ kém. Như nhãn-căn xem-thấy, phía sau thì tối, phía trước thì sáng, phương trước toàn sáng, phương sau toàn tối, kể cả ngó qua bên phải bên trái, thì ba phần chỉ thấy được hai; tóm lại công-năng của nhãn-căn không toàn-vẹn, trong ba phần công-năng thì một phần không có; vậy nên biết nhãn-căn chỉ có tám trăm công-năng.

Như nhĩ-căn nghe khắp, mười phương không sót, động thì giống như có xa có gần, tĩnh thì không có bờ-bến; vậy nên biết nhĩ-căn đầy-đủ một nghìn hai trăm công-năng.

Như tỷ-căn ngửi-biết cả lúc thở ra, thở vào; chỉ có trong lúc thở ra, thở vào mà còn thiếu trong lúc hơi thở giao-tiếp; xét nơi tỷ-căn, ba phần còn thiếu một; vậy nên biết tỷ-căn chỉ có tám trăm công-năng.

Như thiệt-căn phô-bày cùng-tột trí thế-gian và xuất-thế-gian; lời nói có chừng hạn, nhưng lý thì vô-cùng vô-tận; vậy nên biết thiệt-căn đầy-đủ một nghìn hai trăm công-năng.

Như thân-căn biết xúc-trần, biết các cảm-xúc trái và thuận; khi hợp lại thì biết, khi rời ra thì không biết, rời chỉ có một, hợp thì có hai; xét nơi thân-căn, ba phần còn thiếu một; vậy nên biết thân-căn chỉ có tám trăm công-năng.

Như ý-căn thầm-lặng dung-nạp tất-cả các pháp thế-gian, xuất-thế-gian trong mười phương ba đời; dù thánh hay phàm, không pháp nào không bao-dung cùng-tột bờ-bến; vậy nên biết ý-căn đầy-đủ một nghìn hai trăm công-năng.

A-nan, nay ông muốn ngược dòng sinh-tử, xoay về tột gốc lưu-chuyển, đến chỗ không sinh-diệt, thì nên xét trong sáu căn hiện đương thụ-dụng, cái gì là hợp, cái gì là ly, cái gì là sâu, cái gì là nông, cái gì là viên-thông, cái gì là không viên-mãn. Nếu ngộ được căn-tính viên-thông nơi đó, ngược lại dòng nghiệp dệt vọng vô-thủy kia và theo được tính viên-thông, thì đối với sự tu-hành nơi cái căn không viên-thông, hiệu-quả xấp bội, một ngày bằng một kiếp. Tôi nay đã chỉ rõ sáu căn viên-minh, vốn có những số-lượng công-năng như thế; tùy ông lựa chọn nơi căn nào, có thể nhập đạo được, thì tôi sẽ phát-minh, để cho ông được tăng-tiến trên đường tu-hành. Thập-phương Như-lai, nơi mười tám giới, mỗi giới đều tu-hành được viên-mãn vô-thượng Bồ-đề; trong các giới đó, cũng không có gì là hơn, là kém. Chỉ vì ông căn-cơ thấp-kém, chưa thể viên-mãn trí-tuệ, tự-tại trong ấy được, nên tôi bảo ông chỉ đi sâu vào một căn, đi sâu đến chỗ không còn vọng-tưởng, thì cả sáu căn kia một thời đều thanh-tịnh”.

Chi 3. – Chỉ rõ chỗ hư-vọng của sáu căn

Ông A-nan bạch Phật rằng: “Thưa Thế-tôn, làm sao ngược dòng hư-vọng, đi sâu vào một căn, lại có thể khiến cho sáu căn một thời đều thanh-tịnh?”

Phật bảo ông A-nan: “Ông nay đã được quả Tu-đà-hoàn, đã diệt được kiến hoặc của ba cõi thế-gian chúng-sinh, song còn chưa biết những tập-khí hư-vọng chứa-nhóm trong căn từ vô-thủy; các tập-khí kia, phải nhân tu-đạo rồi mới đoạn được, huống chi, trong đó còn có rất nhiều phân-loại, số-mục sinh-trụ dị-diệt.

Nay ông hãy xét sáu căn hiện-tiền là một, hay là sáu. A-nan, nếu nói là một, thì lỗ tai sao không thấy, con mắt sao không nghe, đầu sao không đi, chân sao không nói; còn nếu sáu căn đó quyết-định là sáu, thì như trong Hội nầy, tôi chỉ-dạy pháp-môn nhiệm-mầu cho ông, trong sáu căn của ông, cái gì lĩnh-thụ?”

Ông A-nan bạch: “Tôi dùng lỗ tai nghe”.

Phật dạy: “Lỗ tai ông tự nghe, nào dính gì đến thân với miệng, mà miệng ông thì hỏi nghĩa, thân ông thì đứng dậy kính vâng. Vậy nên biết rằng chẳng phải một, mà cuối-cùng thành sáu, chẳng phải sáu, mà cuối-cùng thành một, rốt-cuộc cái căn của ông, vốn không phải là một, hay là sáu. A-nan, ông nên biết cái căn ấy không phải một, không phải sáu; do từ vô-thủy đắm-chấp trái-ngược, nên nơi tính viên-trạm, sinh ra có cái một, cái sáu. Nay ông được quả Tu-đà-hoàn, tuy đã tiêu được cái sáu, nhưng còn chưa quên cái một.

Như cái hư-không, tham-hợp với các khí-mãnh; do hình-trạng khí-mãnh khác nhau, mà gọi là hư-không khác nhau, đến khi trừ-bỏ khí-mãnh mà xem cái hư-không, thì nói hư-không là một; chứ cái hư-không kia, làm sao lại vì ông mà thành đồng hay không đồng, huống nữa, lại gọi là một hay không phải một.

Sáu căn hay-biết của ông thì cũng như vậy.

Do hai thứ sáng và tối, tỏ-bày lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính yên-lặng, phát ra cái thấy; cái thấy ánh ra thành sắc, kết cái sắc lại thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể con mắt như quả bồ-đào; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo sắc.

Do hai thứ động và tĩnh, đối-chọi lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính yên-lặng, phát ra cái nghe; cái nghe ánh ra thành tiếng, cuốn cái tiếng lại thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể cái tai như lá mới cuốn; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo tiếng.

Do hai thứ thông và bịt, phát-hiện lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính yên-lặng, phát ra cái ngữi; cái ngửi ánh ra thành hương, thu-nạp cái hương thành căn, gốc căn, thì gọi đó là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể cái mủi như hai móng tay rủ xuống; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo hương.

Do hai thứ nhạt và có vị, tham-chước lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính yên-lặng, phát ra cái nếm; cái nếm ánh ra thành vị, thưởng-thức cái vị thành, thưởng-thức cái vị thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể cái lưỡi như mặt trăng mới khuyết; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo vị.

Do hai thứ ly và hợp, so-sánh lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính yên-lặng, phát ra cái biết xúc; cái biết xúc ánh ra thành xúc, ôm-nắm cái xúc thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể cái thân như dáng trống cơm, bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo xúc.

Do hai thứ sinh và diệt, tiếp-tục lẩn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính yên-lặng, phát ra cái biết; cái biết ánh ra thành các pháp, tóm-thu các pháp thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi cái ý như cái thấy trong phòng tối; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo pháp”.

Chi 4. – Chỉ ra hư-vọng không thật. Phát-minh chân-tính thì viên-thoát.

“A-nan, sáu căn như vậy do tính giác-minh kia chuyển thành minh-giác, mất tính sáng-suốt, dính với cái vọng mà phát ra hay-biết. Vậy nên ông nay rời sáng rời tối, thì không có cái thấy, rời động rời tĩnh, thì không có cái nghe, không thông không bịt, thì cái ngửi không sinh, không vị không nhạt, thì cái nếm không phát ra, không ly không hợp, thì cái biết xúc vốn không, không diệt không sinh, thì cái rõ-biết không gá vào đâu.

Ông chỉ đi theo những động-tĩnh, hợp-ly, không vị có vị, thông bịt, sáng tối, sinh diệt, cả mười hai tướng hữu-vi đó, đi đến rút được một căn ra khỏi cái dính, phục vào bên trong, phục trở về tính bản-chân, phát ra tính sáng-suốt bản-lai; tính sáng-suốt đó đã phát-minh, thì năm chỗ dính khác cũng liền đó được giải-thoát.

Không do tiền-trần mà khởi ra tri-kiến thì cái sáng-suốt không đi theo căn, chỉ gửi nơi căn mà phát ra; nhân đó sáu căn có thể dùng thay lẫn nhau.

A-nan, há ông không biết ở trong Hội nầy, ông A-na-luật-đà không có mắt mà thấy, rồng Bạt-nan-đà không có tai mà nghe, thần-nữ Căng-già không có mũi mà nghe hương, ông Kiều-phạm-bát-đề lưỡi khác mà biết vị, thần Thuấn-nhã-đa không có thân mà biết xúc, do hào-quang Như-lai ánh ra, làm cho ông ấy tạm-thời hiện ra có thân, chứ bản-chất của ông là gió, thì thân-thể vốn không có; các vị Thanh-văn được tịch-diệt trong diệt-tận-định, như ông Ma-ha-ca-diếp trong Hội nầy, đã diệt ý-căn lâu rồi mà vẫn rõ-biết cùng khắp, không nhân tâm-niệm.

A-nan, nếu các căn của ông đều được giải-thoát trọn-đủ, thì cái sáng-suốt trong tâm-tính phát ra; như thế, thì các phù-trần và các tướng biến-hoá trong thế-gian sự vật đều tiêu mất, như giá gặp nước sôi, ngay đó, liền hóa-thành vô-thượng tri-giác.

A-nan, như người thế-gian kia, nhóm cái thấy nơi con mắt; nếu bảo nhắm kín, thì tướng tối hiện ra, cả sáu căn đều tối, đầu và chân giống nhau. Người kia lấy tay rờ quanh ngoài thân-thể, thì tuy không thấy, nhưng một phen nhận được đầu và chân rồi, thì cái hay-biết vẫn đồng như trước kia.

Duyên vì cái thấy nhân nơi sáng, nên khi tối thành ra không thấy, chứ không có sáng mà tự phát ra cái thấy, thì các thứ tối hẳn không thể làm mờ được. Căn và trần đã tiêu rồi, làm sao tính giác-minh lại không thành nhiệm-mầu cùng khắp”.

Xem mục lục
Chùa Việt
2015-02-07-16-36-16ChuaSacTuTInhQuang.jpg
2015-02-07-15-44-01ChuaBuuNghiem.jpg
2015-02-07-15-41-19ChuaQanTheAm.jpg
2015-02-08-08-42-17ToanCanhChua.jpg
2015-02-07-15-49-08ChuaGiacHai.jpg
2015-02-08-08-33-25MatTienChua2003.jpg
2015-02-07-15-53-10MatTienChua.jpg
2015-02-07-16-25-09ChuaQuangDat.jpg
2015-02-07-16-34-47MatTienChua.jpg
2015-02-07-15-52-28ChuaLinhSon.jpg
2015-02-08-08-32-46ChuaBaoQuoc.jpg
2015-02-07-15-46-02ToanCanhTinhXa.jpg