ĐOẠN I
THUẬT LẠI CHỖ NGỘ, THỈNH-CẦU PHÉP TU-HÀNH
Ông A-nan và cả đại-chúng nghe lời Phật dạy, tiêu hết nghi-hoặc, ngộ được thật-tướng, thân và ý đều yên-lành, được pháp chưa từng có. Rồi lại thương-khóc, đỉnh-lễ chân Phật, quỳ dài chấp tay mà bạch Phật rằng: “Đức vô-thượng đại-bi thanh-tịnh Bảo-vương, khéo khai-ngộ cho tâm chúng tôi, dùng các nhân-duyên như thế, phương-tiện dắt-dìu những kẻ chìm-đắm ra khỏi bể khổ. Bạch Thế-tôn, nay tôi tuy được vâng nghe pháp-âm như vậy, nhận-biết tâm-tính diệu-minh Như-lai-tạng cùng khắp thế-giới mười phương, trùm-chứa các cõi Phật bảo-nghiêm thanh-tịnh trong thập phương quốc-độ; Như-lai lại trách tôi nghe nhiều mà vô-dụng, không kịp-thời tu-tập. Nay tôi, giống như người lênh-đênh xiêu-bạt, bỗng-nhiên gặp vị Thiên-vương cho cái nhà tốt; tuy được nhà lớn, nhưng cốt-yếu phải biết cửa mà vào; xin nguyện đức Như-lai không ngớt lòng đại-bi, chỉ-bày cho những kẻ mờ-tối trong Hội nầy, rời-bỏ pháp Tiểu-thừa và đều nhận được con đường phát-tâm tu-tập đi đến vô-dư Niết-bàn của Như-lai, khiến cho những hàng hữu-học biết cách uốn-dẹp tâm phan-duyên lâu đời, được pháp tổng-trì, chứng-nhập tri-kiến của Phật”. Ông A-nan nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, ở trong Hội một lòng, mong đợi từ-chỉ của Phật.
Khi bấy giờ, đức Thế-tôn thương-xót các hàng Thanh-văn, Duyên-giác trong Hội, chưa được tự-tại nơi tâm Bồ-đề, và những chúng-sinh phát Bồ-đề-tâm trong đời mạt-pháp về sau, khi Phật đã diệt-độ rồi, khai-thị cho đường tu-hành nhiệm-mầu pháp vô-thượng-thừa, và chỉ-dạy ông A-nan với cả đại-chúng rằng: “Các ông quyết-định phát-tâm Bồ-đề, đối với pháp Tam-ma-đề chư Phật Như-lai, không sinh mệt-mỏi, thì trước hết, nên rõ hai nghĩa quyết-định, trong lúc bắt đầu phát-tâm tự-giác.”
ĐOẠN II
XÉT VỀ PHÁT TÂM TRONG LÚC TU-NHÂN
Chi 1. – Dùng hư-không để ví với chính-nhân và chia ra bên trong, bên đục.
“Thế nào là hai nghĩa quyết-định trong lúc mới phát-tâm. A-nan, nghĩa thứ nhất là: Nếu các ông muốn rời-bỏ phép Thanh-văn, tu thừa Bồ-tát, vào tri-kiến của Phật, thì nên xét kỹ chỗ phát tâm trong lúc tu-nhân với chỗ giác-ngộ trong lúc chứng-quả, là đồng hay là khác nhau. A-nan, nếu trong lúc tu-nhân, đem cái tâm sinh-diệt làm cái nhân tu-hành, đề cầu cho được cái quả bất-sinh bất-diệt của Phật-thừa, thì thật không thể được. Do cái nghĩa đó, ông nên xét các pháp, có thể làm ra trong khí-thế-gian, đều phải thay-đổi diệt mất. A-nan, ông xét các pháp, có thể làm ra trong thế-gian, có cái gì là không hư-nát, nhưng không bao-giờ nghe hư-không tan-rã, vì sao? Vì hư-không không phải là cái bị làm ra, do đó, trước sau không hề tan mất. Thì trong thân ông, tướng cứng là địa-đại, thấm ướt là thủy-đại, hơi ấm là hỏa-đại, lay-động là phong-đại; do bốn cái ấy ràng-buộc, mà chia cái tâm-tính diệu-minh vẳng-lặng, cùng khắp của ông, làm ra cái thấy, cái nghe, cái biết, cái xét, từ đầu đến cuối, tạo-thành năm lớp ô-trược.
“Thế nào là trược? A-nan, ví như nước trong, bản-nhiên là trong-sạch, lại như những thứ bụi, đất, tro, cát, bản-chất là ngăn-ngại; hai bên bản-nhiên thể-chất khác nhau, không hợp nhau được. Có người thế-gian lấy đất bụi kia, ném vào nước sạch, thì đất mất ngăn-ngại, nước mất trong-sạch, hình-trạng đục-vẩn, gọi đó là trược; năm lớp ô-trược của ông cũng giống như vậy.
Chi 2. – Khai-thị về ngũ-trược.
A-nan, ông thấy hư-không khắp thập phương thế-giới. Bên không, bên thấy, không tách-rời nhau; có cái không mà không thật-thể, có cái thấy mà không hay-biết, hai bên xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ nhất, gọi là kiếp-trược.
Thân ông hiện ôm bốn món đại làm tự-thể, che-bít những sự thấy, nghe, hay, biết, thành bị ngăn-ngại và trở lại làm cho các thứ địa, thủy, hỏa, phong, thành có hay-biết; các điều đó xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ hai, gọi là kiến-trược.
Lại trong tâm ông, những sự nhớ-biết học-tập, phát ra tri-kiến, hiện ra tướng sáu trần, thì những sự đó, rời tiền-trần không có tướng, rời tri-giác không có tính, xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ ba, gọi là phiền-não-trược.
Lại tâm ông ngày đêm sinh-diệt không ngừng, tri-kiến thì muốn lưu mãi ở thế-gian, nhưng nghiệp-báo xoay-vần thì lại thường dời-đổi cõi nầy cõi khác, những điều đó xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ-tư, gọi là chúng-sinh-trược.
Cái thấy, cái nghe của ông, bản tính vốn không khác nhau, do các trần cách-trở, mà không duyên-cớ gì, lại sinh ra khác nhau; trong tính thì vẫn biết nhau, nhưng trong dụng thì trái-ngược nhau, cái đồng và cái khác đã mất hẳn chuẩn-đích, xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ năm, gọi là mệnh-trược.
Chi 3. – Kết-thành cái tâm tu-nhân
A-nan, nay ông muốn cho cái sự thấy, nghe, hay, biết, xa xa hợp với bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh của Như-lai, thì trước hết, phải lựa-bỏ cỗi-gốc sống chết, nương theo cái không-sinh-diệt mà thành-tựu tính yên-lặng cùng khắp. Dùng cái yên-lặng mà xoay các thứ sinh-diệt hư-vọng trở về nơi bản-giác, được tính không-sinh-diệt của bản-giác làm cái tâm tu-nhân, thì về sau mới viên-thành chổ tu-chứng của quả-vị. Như lắng nước đục đựng trong một cái đồ để yên, để yên mãi không lay-động, thì đất cát tự chìm xuống và nước trong hiện ra, thế gọi là bắt đầu uốn-dẹp các khách-trần phiền-não; gạn bùn hết sạch, chỉ còn nước trong, thì gọi là dứt hẳn căn-bản vô-minh; tướng sáng-suốt đã tinh-thuần, thì tất-cả các điều biến-hiện đều không gây ra phiền-não và hợp với đức mầu thanh-tịnh của Niết-bàn.