ĐOẠN I
ÔNG MÃN-TỪ KHEN-NGỢI PHẬT VÀ TRÌNH-BÀY CHỖ NGHI.
Khi bấy giờ, ông Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử ở trong đại-chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo bên phải, đầu gối bên phải chấm đất, chấp tay cung-kính mà bạch Phật rằng: Đức Thế-tôn có oai-đức lớn, khéo vì chúng-sinh diễn-bày Đệ-nhất-nghĩa-đế của Như-lai. Đức Thế-tôn thường cho rằng trong những người thuyết-pháp, tôi là bậc nhất, song nay tôi nghe pháp-âm nhiệm-mầu của Như-lai, cũng như người điếc, cách xa trăm bước, nghe tiếng muỗi mạt, vốn đã không thấy, huống nữa lại nghe. Tuy Phật chỉ rõ, khiến cho tôi trừ được lầm-lạc, nhưng tôi chưa rõ chỗ rốt-ráo, không còn nghi-hoặc của nghĩa ấy.
Bạch Thế-tôn, như bọn ông A-nan, tuy được khai-ngộ, nhưng chưa trừ hết tập-khí hữu-lậu, còn bọn chúng tôi là những người đã lên đến bậc vô-lậu trong Hội nầy, thì tuy đã hết các lậu, nhưng nay nghe pháp-âm của Như-lai vừa dạy, còn mắc phải những điều nghi-hối.
ĐOẠN II
THIẾT-LẬP HAI ĐIỀU NẠN-HỎI
“Bạch Thế-tôn, nếu như hết thảy các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới, vân vân… trong thế-gian, đều là tính thanh-tịnh bản-nhiên Như-lai-tạng, thì làm sao bỗng-nhiên lại sinh ra các tướng hữu-vi như núi, sông, đất liền, thứ lớp dời-đổi, trước sau quanh-lộn.
Lại đức Như-lai nói bốn món đại địa, thủy, hỏa, phong, bản-tính viên-mãn dung-hòa, cùng khắp pháp-giới, vẳng-lặng thường-trụ. Bạch Thế-tôn, nếu tính địa-đại cùng khắp, sao lại dung được thủy-đại; nếu tính thủy-đại cùng khắp thì hỏa-đại không thể phát-sinh; làm sao lại phát-minh hai tính thủy-đại và hỏa-đại đều cùng khắp hư-không, không diệt lẫn nhau? Bạch Thế-tôn, tính địa-đại là ngăn-ngại, tính hư-không là rỗng-suốt, làm sao hai đại ấy lại đều cùng khắp pháp-giới. Tôi nay không biết nghĩa ấy do đâu, xin Phật phát lòng đại-từ, vén mây mê-lầm cho tôi và trong đại-chúng.” Ông Mãn-từ nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, kính mong lời dạy từ-bi vô-thượng của đức Như-lai.
ĐOẠN III
PHẬT HỨA CHỈ-BÀY THẮNG-NGHĨA, BẢO TRONG CHÚNG LẮNG-NGHE.
Khi bấy giờ, đức Thế-tôn bảo ông Phú-lâu-na và các vị A-la-hán lậu-tận vô-học trong Hội rằng : “Ngày nay Như-lai khắp vì trong Hội nầy chỉ-bày tính chân-thắng-nghĩa trong thắng-nghĩa, khiến cho ở trong Hội nầy, những hàng định-tính Thanh-Văn và hết thảy các bậc A-la-hán, chưa được hai phép nhân-không pháp-không, phát-tâm hướng về thượng-thừa, đều được chỗ tu-hành chân-chính, thiết-thực không xao-động của cảnh-giới tịch-diệt nhất-thừa. Ông hãy nghe kỹ, tôi sẽ vì ông mà nói”.
Các ông Phú-lâu-na kính vâng pháp-âm của Phật, lẳng-lặng vâng nghe.
ĐOẠN IV
NẾU BẢN-TÍNH ĐỂ CHỈ RÕ CĂN-NGUYÊN HƯ-VỌNG
Phật dạy: “Ông Phú-lâu-na, như ông vừa nói : Đã là bản-nhiên thanh-tịnh, làm sao bỗng-nhiên lại sinh ra có núi sông, đất liền. Vậy ông không thường nghe Như-lai chỉ-dạy: Tính-giác là diệu-minh, bản-giác là minh-diệu, hay sao?”
Ông Phú-lâu-na bạch: “Thưa Thế-tôn, vâng, tôi thường nghe Phật chỉ-dạy nghĩa ấy.”
Phật bảo: “Ông bảo cái giác là minh, lại là vì bản-tính nó là minh, nên gọi nó là giác, hay là vì giác được cái không minh, mà gọi là minh-giác?”
Ông Phú-lâu-na bạch: “Nếu cái không-minh đó mà gọi là giác, thì nó không minh được cái gì.”
Phật dạy: “Nếu không có sở-minh là không có minh-giác, thì có sở không phải là giác, mà không sở, lại không phải là minh; và không minh, thì lại không phải là giác-tính trạm-minh. Vậy tính-giác chắc là minh, do vọng-tưởng mà làm ra có minh-giác. Giác không có gì là sở-minh, nhân có minh mà lập ra thành sở; đã giả-dối lập ra có sở, mới sinh ra cái năng hư-vọng của các ông”.
ĐOẠN V
CHỈ TƯỚNG NGUYÊN-NHÂN CỦA THẾ-GIỚI SỰ-VẬT, HƯ-KHÔNG VÀ CHÚNG-SINH
“Trong tính không đồng, không khác, nổi dậy thành ra có khác; khác với cái khác kia, thì nhân cái khác đó, mà lập-thành cái đồng. Phát-minh cái đồng, cái khác rồi, thì nhân đó, mà lập ra cái không đồng, không khác. Rối-loạn như vậy, đối-dãi với nhau sinh ra lao-lự; lao-lự mãi phát ra trần-tướng, tự vẩn-đục lẫn nhau; do đó, đưa đến những trần-lao phiền-não. Nổi lên thì thành thế-giới, lặng xuống thì thành hư-không; hư-không là đồng, thế-giới là khác; cái không đồng, không khác kia, thật là pháp hữu-vi.
ĐOẠN VI
CHỈ BA TƯỚNG KẾT-QUẢ TIẾP-TỤC
“Cái giác là sáng-suốt, cái hư-không thì không hay-biết, hai cái đối-đãi với nhau, thành có lay-động, cho nên có phong-luân nắm-giữ thế-giới. Nhân cái hư-không, mà sinh ra có lay-động, phát-minh tính cứng, thì thành có ngăn-ngại; các loại kim-bảo đều do minh-giác lập ra tính cứng, cho nên có kim-luân nắm-giữ cõi nước. Biết cái cứng, thì thành có kim-bảo, rõ cái lay-động, thì phong-đại phát ra; phong-đại và kim-bảo cọ-xát nhau, cho nên có hỏa-đại làm tính biến-hóa. Ngọn lửa xông lên, kim-bảo sinh ra tính ướt, cho nên có thủy-luân trùm khắp các cõi mười phương. Lửa bốc lên, nước sa xuống, giao nhau phát-hiện, mà lập-thành tính cứng; chỗ ướt là bể lớn, chỗ khô là gò nổi; do cái nghĩa ấy, trong bể lớn kia, hơi nóng thường bốc lên; trong gò nổi kia, sông ngòi thường chảy xuống. Thế nước kém thế lửa, thì kết thành núi cao, vậy nên đá núi, đập thì có tia lửa, nấu thì chảy ra nước. Thế đất kém thế nước, rút ra thành cỏ cây, vậy nên rừng-rú bị đốt thì thành đất, vắt ra thì có nước.
Vọng-tưởng giao-xen phát-sinh, xoay-vần làm chủng-tử cho nhau; do nhân-duyên ấy mà thế-giới tiếp-tục.
Lại nữa, Phú-lâu-na, vọng-tưởng chẳng phải gì khác, do tính giác-minh hóa ra lầm-lỗi; cái sở-minh hư-vọng đã lập, thì phạm-vi của cái năng-minh không vượt khỏi được. Do nhân-duyên ấy, nghe không ra ngoài tiếng, thấy không vượt khỏi sắc, sáu cái vọng: Sắc, hương, vị, xúc vân vân…, đã thành lập, thì do đó, chia ra có thấy, nghe, hay, biết.
Đồng-nghiệp ràng-buộc lẫn nhau mà hợp, mà ly, mà thành, mà hóa. Cái thấy phát-minh, thì các sắc phát ra; nhận rõ nơi sự thấy, thì thành có tư-tưởng; rồi ý-kiến khác nhau, thì thành ra ghét, tưởng-niệm đồng nhau, thì thành ra yêu. Lan cái yêu ra, thành hạt giống, thu-nạp tưởng-niệm, thành ra cái thai, giao-xen phát-sinh, hấp-dẫn bọn đồng-nghiệp, nên có nhân-duyên sinh ra yết-la-lam, át-bồ-đàm, vân vân… Thai-sinh, noãn-sinh, thấp-sinh hay hóa-sinh là tùy phần sở-ưng: Noãn chỉ do tưởng-niệm mà sinh, thai thì nhân ái-tình mà có, thấp-sinh thì cơ-cảm mà hợp lại, còn hóa-sinh thì phân-ly mà ứng-hiện. Khi tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly, thay-đổi lẫn nhau, nên các loài chịu nghiệp-báo cũng theo đó mà lên xuống; do nhân-duyên ấy, chúng-sinh tiếp-tục.
Phú-lâu-na, tư-tưởng thương-yêu ràng buộc lẫn nhau, yêu mãi không rời, thì những cha mẹ con cháu trong thế-gian sinh nhau không ngớt, bọn nầy thì lấy dục-tham làm gốc. Lòng tham, lòng yêu giúp nhau tăng-trưởng, tham mãi không thôi, thì các loài thai-sinh, noãn-sinh, thấp-sinh, hóa-sinh trong thế-gian, tùy sức mạnh-yếu, ăn-nuốt lẫn nhau; bọn nầy thì lấy sát-tham làm gốc. Lấy thân người ăn con dê, dê chết làm người, người chết làm dê, như vậy cho đến mười loài chúng-sinh chết sống, sống chết, ăn-nuốt lẫn nhau, nghiệp dữ cùng sinh ra tột đời vị-lai, bọn nầy thì lấy đạo-tham làm gốc.
Người nầy mắc nợ thân-mệnh người kia, người kia trả nợ cũ cho người nầy; do nhân-duyên ấy, trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong đường sống chết. Người nầy yêu cái tâm người kia, người kia ưa cái sắc người nầy, do nhân-duyên ấy, trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong vòng ràng-buộc. Duy ba món sát, đạo, dâm làm gốc và vì nhân-duyên đó, nghiệp-quả tiếp-tục.
Phú-lâu-na, ba thứ tiếp-tục điên-đảo ấy, đều do tính sáng-suốt rõ-biết của giác-minh, nhân rõ-biết phát ra có tướng, theo vọng-tưởng mà kiến-chấp sinh ra, các tướng hữu-vi núi sông, đất liền thứ lớp dời-đổi, đều nhân cái hư-vọng đó, mà xoay-vần sau trước”.
ĐOẠN VII
CHỈ RÕ GIÁC KHÔNG SINH MÊ
Ông Phú-lâu-na bạch: “Nếu cái diệu-giác đó, bản-tính là diệu-minh, cùng với tâm Như-lai, không thêm không bớt, mà không cớ gì bỗng-nhiên lại sinh ra các tướng hữu-vi núi sông, đất liền; vậy Như-lai hiện nay đã chứng được bản-giác diệu-minh, không có phân-biệt, thì đến lúc nào lại sinh ra núi sông, đất liền và các tập-lậu hữu-vi?”
Phật bảo ông Phú-lâu-na: “Ví như người mê, nơi một xóm làng, lầm phương Nam làm phương Bắc, thì cái mê ấy, lại là nhân mê mà có hay nhân ngộ mà ra?”
Ông Phú-lâu-na bạch: “Người mê như vậy, cũng không nhân mê, cũng không nhân ngộ. Vì sao? Mê, vốn không có gốc, làm sao lại nhân mê? Còn ngộ, không phải cái sinh ra mê, làm sao lại nhân ngộ?”
Phật dạy: “Người mê kia, chính trong lúc mê, bỗng có người ngộ chỉ-bày cho được ngộ. Phú-lâu-na, ý ông nghĩ thế nào? Người ấy giải-trừ được cái mê đi, thì đối với xóm làng đó, còn có sanh mê nữa không?
– Thưa Thế-tôn, không.
– Phú-lâu-na, Như-lai mười phương thì cũng như vậy. Cái mê đó không có gốc, tính nó rốt-ráo là rỗng-không; xưa vốn không mê, chỉ hình-như có mê, có giác; giác được cái mê, thì cái mê diệt và giác, không sinh ra mê.
Cũng như người lòa thấy hoa-đốm giữa hư-không, nếu trừ được bệnh lòa, thì hoa đốm nơi hư-không diệt mất. Bỗng có người ngu, ở chỗ hư-không mà hoa-đốm kia đã diệt rồi, lại mong đợi hoa-đốm sinh lại. Ông xét người ấy, là ngu hay là trí-tuệ?”
Ông Phú-lâu-na bạch: “Hư-không vốn không có hoa-đốm, vì hư-vọng mà thấy có sinh diệt; thấy hoa-đốm diệt mất nơi hư-không đã là điên-đảo rồi; lại còn muốn bảo nó sinh lại, thì thật là điên-dại; làm sao còn gọi người điên như vậy, là ngu hay là trí-tuệ.”
Phật dạy: “Ông hiểu như vậy, làm sao còn hỏi tính-giác diệu-minh, không có phân-biệt của chư Phật Như-lai, lúc nào lại sinh ra núi sông, đất liền.
Lại như quặng vàng lộn với vàng ròng, khi vàng đã luyện thành ròng rồi, thì không xen-lộn được nữa; cũng như cây đã đốt ra tro, thì không thành cây được nữa; Bồ-đề Niết-bàn chư Phật Như-lai thì cũng như vậy.
ĐOẠN VIII
CHỈ CÁC ĐẠI CÓ THỂ DUNG NHAU
“Phú-lâu-na, ông lại hỏi về địa, thủy, hỏa, phong, bản-tính viên-mãn dung-hòa, cùng khắp pháp-giới, nghi sao tính nước, tính lửa lại không lấn nhau, diệt nhau và nêu ra hư-không và địa-đại đều cùng khắp pháp-giới, lẽ ra không dung được nhau.
Phú-lâu-na, ví như hư-không, bản-thể không phải các tướng, mà không ngăn-cản các tướng phát-huy. Vì sao? Phú-lâu-na, nơi hư-không kia, mặt trời soi thì sáng, mây kéo thì tối, gió lay động, trời tạnh thì trong, hơi đọng, thì dục, bụi nổi thì mù, nước đứng thì ánh. Ý ông nghĩ thế nào? Các tướng hữu-vi khác nhau như vậy, nhân các cái kia mà sinh, hay nhân hư-không mà có. Phú-lâu-na, nếu như do các cái kia sinh ra, thì khi mặt trời soi, đã là mặt trời sáng, mười phương thế-giới đều thành sắc của mặt trời, làm sao giữa hư-không, lại còn thấy mặt trời tròn. Nếu là hư-không sáng, thì hư-không phải tự soi lấy, làm sao lúc giữa đêm mây-mù, lại không sinh ra sáng-chói. Vậy nên biết rằng cái sáng đó, không phải mặt trời, không phải hư-không và cũng không ra ngoài hư-không và mặt trời. Xét cái tướng vốn là vọng, không thể chỉ-bày, cũng như muốn hoa-đốm hư-không kết-thành quả hư-không, làm sao còn gạn-hỏi cái nghĩa lấn-diệt lẫn nhau? Xét cái tính, vốn là chân, chỉ là tính-giác diệu-minh, tính-giác diệu-minh, vốn không phải là nước hay là lửa, làm sao còn hỏi về nghĩa không dung được nhau?
Bản-tính diệu-minh chân-thật thì cũng như vậy. Ông phát-minh cái hư-không, thì có hư-không hiện ra; địa, thủy, hỏa, phong, mỗi mỗi phát-minh, thì mỗi mỗi hiện ra; nếu cùng phát-minh, thì cùng hiện ra.
Thế nào là cùng hiện ra? Phú-lâu-na, như trong một chỗ có nước, hiện ra bóng mặt trời, hai người đồng xem mặt trời trong nước; rồi một người đi phương Đông, một người đi phương Tây, thì hai bên đều có mặt trời theo mình cùng đi, một cái về phương Đông, một cái về phương Tây, không có chuẩn-đích nhất-định. Không nên gạn-hỏi rằng, mặt trời đó là một, sao lại mỗi cái đi theo mỗi người? Các mặt trời đã thành hai, làm sao trước kia chỉ hiện ra có một? Hư-vọng quanh-lộn như thế, không thể lấy gì làm bằng cứ.