Chi 1. – Thu nhãn-nhập.
“Lại nữa, A-nan, vì sao bản-tính của 6 nhập, vốn là tính chân-như nhiệm-mầu của Như-lai-tạng? A-nan, tức nơi tròng con mắt kia, ngó chăm phát ra mỏi-mệt, thì cả cái thấy và cái mỏi-mệt đó đều là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng-trần sáng và tối, phát ra cái thấy bên trong, thu-nạp các trần-tướng ấy gọi là tính-thấy; cái thấy đó rời hai trần sáng và tối kia, rốt-ráo không có tự-thể. Thật vậy, A-nan, ông nên biết cái thấy đó không phải từ nơi sáng, nơi tối mà đến, không phải từ nơi con mắt mà ra, cũng không phải do cái hư-không mà sinh. Ví cớ sao ? Nếu từ cái sáng mà đến, thì khi tối đã theo cái sáng mà diệt, lẽ ra không thấy được tối. Nếu từ cái tối mà đến, thì khi sáng phải theo cái tối mà diệt, lẽ ra không thấy được sáng. Nếu do con mắt mà sinh, hẳn không có sáng, có tối, thì cái thấy như vậy vốn không tự-tính. Nếu do hư-không mà ra, thì ngó trước thấy các trần-tượng, xoay về phải thấy con mắt; lại hư-không tự thấy, nào có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng nhãn-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
Chi 2. – Thu nhĩ-nhập.
“A-nan, ví như người lấy hai ngón tay bịt chặt hai lỗ tai, do lỗ tai mỏi-mệt, trong đầu hóa ra có tiếng; cả cái nghe cùng cái mỏi-mệt đồng là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng-trần động và tĩnh, phát ra cái nghe ở trong, thu-nạp cái trần-tượng đó, gọi là tính-nghe. Tính-nghe ấy rời hai trần động, tĩnh kia, rốt-ráo không có tự-thể. Thật vậy, A-nan, ông nên biết, cái nghe đó không phải từ nơi động, nơi tĩnh mà đến, không phải từ nơi lỗ tai mà ra, không phải do hư-không mà sinh. VÌ cớ sao? Nếu cái nghe kia từ nơi tĩnh mà đến, thì khi động phải theo cái tĩnh mà diệt, lẽ ra không nghe được động. Nếu từ nơi động mà đến, thì khi tĩnh sẽ theo cái động mà diệt, lẽ ra không biết được tĩnh. Nếu do lỗ tai mà sinh, hẳn không có động, có tĩnh, thì cái nghe như vậy vốn không tự-tính. Nếu do hư-không mà ra, thì đã có tính nghe, chắc không phải là hư-không nữa; lại hư-không tự nghe, nào có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng nhĩ-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
Chi 3. – Thu tỷ-nhập.
“A-nan, ví như có người bịt gấp hai lỗ mũi, bịt lâu thành ra mỏi-mệt thì ở, trong lỗ mũi, nghe có cảm-xúc lạnh; nhân những cảm-xúc như thế, mà phân-biệt được là thông, là ngăn-bịt, là rỗng, là đặc, cho đến các mùi thơm, thối; cả cái ngửi cùng cái mỏi-mệt đồng là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng-trần thông và bịt, phát ra cái ngửi ở trong, thu-nạp các trần-tượng đó gọi là tính-biết-ngửi. Cái ngửi đó rời hai trần thông và bịt kia, rốt-ráo không có tự-thể. Nên biết cái ngửi đó, không phải từ cái thông, cái bịt mà đến, không phải từ nơi lỗ mũi mà ra, cũng không phải do hư-không mà sinh. Vì cớ sao? Nếu từ cái thông mà đến, thì khi bịt, cái ngửi đã mất rồi, làm sao mà biết được bịt; nếu nhân cái bịt mà có, thì khi thông, không còn cái ngửi, làm sao biết được các mùi thơm, thối. Nếu từ lổ mũi sinh ra, hẳn không có cái thông, cái bịt, thì cái ngửi như vậy vốn không tự-tính. Nếu do hư-không mà ra, thì cái ngửi đó, phải xoay lại ngửi lỗ mũi của ông; lại hư-không tự ngửi, nào có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng tỷ-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
Chi 4. – Thu thiệt-nhập.
“A-nan, ví như có người dùng lưỡi liếm mép, liếm mãi sinh ra mỏi-mệt. Nếu người đó có bệnh thì có vị đắng. Còn người không có bệnh thì có chút vị ngọt. Do những cảm-xúc ngọt, đắng, mà bày tỏ cái tính-nếm; còn khi không động thì thường có tính-nhạt. Cả cái nếm và cái mỏi-mệt đồng là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng-trần nhạt và ngọt, đắng, phát cái nếm ở trong, thu-nạp các trần-tượng đó, gọi là tính-biết-nếm. Tính-biết-nếm ấy rời hai trần nhạt và ngọt, đắng kia, rốt-ráo không có tự-thể. Thật vậy, A-nan, ông nên biết rằng cái biết đắng, biết nhạt như vậy, không phải từ vị ngọt, đắng mà đến, không phải nhân tính nhạt mà có, không phải từ nơi lưỡi mà ra, cũng không phải do hư-không mà sinh. Vì cớ sao? Nếu từ các vị ngọt đắng mà đến, thì khi nhạt, cái biết-nếm đã diệt rồi, làm sao biết được nhạt; nếu từ cái nhạt mà ra thì khi ngọt, cái nếm đã mất rồi, làm sao biết được vị ngọt, đắng. Nếu do cái lưởi sinh ra, hẳn không có những vị ngọt, đắng và nhạt, thì cái biết-nếm ấy vốn không tự-tính. Nếu do hư-không mà ra, thì hư-không tự nếm, chứ không phải lưỡi ông nếm; lại hư-không tự biết, nào có dính gì đến chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng thiệt-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
Chi 5. – Thu thân-nhập.
“A-nan, ví-dụ như có người dùng bàn tay lạnh chạm bàn tay nóng, nếu thế bên lạnh nhiều hơn, thì bên nóng cũng thành lạnh theo, nếu thế bên nóng nhiều hơn, thì bên lạnh cũng thành ra nóng; rồi như vậy, do cái cảm-xúc nhận-biết trong lúc hợp lại mà rõ sự nhận-biết lúc rời ra. Nếu cái thế chênh-lệch hiện-thành giữa nóng và lạnh, thì nhân đó phát ra mỏi-mệt mà có cảm-xúc. Cả cái biết cảm-xúc cùng cái mỏi-mệt đồng là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.
Nhân nơi hai vọng-trần ly và hợp, phát ra cái hay-biết ở trong, thu-nạp các trần-tượng đó, gọi là cái biết-cảm-xúc. Cái biết như thế, rời hai trần ly và hợp, trái và thuận kia, rốt-ráo không có tự-thể; thật vậy, A-nan, ông nên biết cái cảm-xúc đó, không phải từ cái ly, cái hợp mà tới, không phải từ cái trái, cái thuận mà có, không phải do nơi thân-thể mà ra, cũng không phải do nơi hư-không mà sinh. Vì cớ sao? Nếu từ cái hợp mà đến thì khi ly, cái biết đã mất rồi, làm sao biết được cái ly; đối với hai tướng trái và thuận thì cũng như vậy. Nếu từ thân-thể mà ra, hẳn không có những tướng ly, hợp, trái, thuận, thì cái biết-cảm-xúc của ông vốn không tự-tính. Nếu từ nơi hư-không mà ra, thì hư-không tự hay-biết, nào có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng thân-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
Chi 6. – Thu ý-nhập.
“A-nan, ví như có người nhọc-mỏi thì ngủ, ngủ chán thì thức dậy, khi nhận-biết trần-cảnh thì nhớ, khi hết nhớ thì gọi là quên. Các món sinh, trụ, dị, diệt, trái-ngược đó, thói-quen thu-nạp đưa vào trong, không lẫn-lộn nhau, gọi là ý-căn. Cả cái ý-căn cùng cái mỏi-mệt, đồng là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng-trần sinh và diệt, nhóm cái biết ở trong, thu-nạp pháp-trần bên trong, dòng thấy nghe đi ngược lại vào bên trong mà không đến đâu, gọi là cái ý-hay-biết. Cái ý-hay-biết đó rời hai trần thức và ngủ, sinh và diệt kia, rốt-ráo không có tự-thể. Thật vậy, A-nan, nên biết cái ý-căn hay-biết như thế, không phải từ nơi thức, nơi ngủ mà đến, không phải do cái sinh, cái diệt mà có, không phải từ nơi ý-căn mà phát ra, cũng không phải do nơi hư-không mà sinh. Ví cớ sao? Nếu từ nơi thức mà đến, thì khi ngủ đã theo cái thức mà diệt rồi, còn lấy cái gì làm cái ngủ; nếu chắc lúc sinh mới có, thì khi diệt, đã hóa như không có rồi, thì lấy cái gì mà biết là diệt. Nếu do cái diệt mà có, thì khi sinh, không có diệt nữa, lấy gì mà biết là sinh. Nếu do ý-căn mà ra, thì hai tướng thức, ngủ thay-đổi lẫn nhau nơi thân-thể, nếu rời hai tướng ấy ra, thì cái ý-hay-biết đó, cũng như hoa-đốm hư-không, rốt-ráo không có tự-tính. Nếu do hư-không mà sinh, thì hư-không tự biết, nào có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng ý-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.